KHÔNG THỂ LẪN LỘN HAI KHÁI NIỆM : TỔ QUỐC VÀ QUỐC GIA



Báo Quân đội nhân dân (www.qdnd.vn) post lúc 9h 56’PM ngày 14/04/2013 có bài “Tổ quốc không thể không gắn với chế độ xã hội” của các tác giả An Huy và Bắc Hà. Đây lại tiếp tục là một bài báo chính trị luận tuy rất công phu nhưng cũng không thể biện minh được sự bất hợp lý và bất hợp pháp trong Hiến pháp 1992 và cả những cái gọi là “sửa đổi hiến pháp” lần này, khi nó vẫn áp đặt vai trò lãnh đạo tuyệt đối và lâu dài của ĐCSVN lên nhà nước và xã hội.

An Huy và Bắc Hà lý luận: “Thực tiễn cho thấy, trong lịch sử nhân loại không hề có Tổ quốc phi lịch sử, không gắn với một chế độ xã hội nào, không gắn với một lực lượng cầm quyền nào. Tổ quốc mà không gắn với xã hội, không gắn với dân cư thì đó chỉ là hoang đảo. Dân tộc mà không gắn với xã hội với truyền thống thì chẳng khác nào nói đến một cộng đồng
dân cư còn ở thời kỳ hoang dã hoặc bị rơi vào chứng mất trí nhớ như trong phim ảnh mà người ta dựng lên nhằm mục đích giải trí.” Để làm sáng tỏ vấn đề và chỉ ra những… tạm gọi là “khuyết tật lý luận” của hai tác giả kể trên, ta hãy cùng xem, thế nào là tổ quốc, thế nào là quốc gia, thế nào là chế độ (chế độ chính trị) xã hội?
 
Khái niệm “Tổ Quốc” chính là sự hình tượng hóa cái đất nước cụ thể mà một người nào đó đang sống hoặc đã từng sinh ra và lớn lên ở đó, người Anh, Mỹ thì gọi là Motherland (Đất Mẹ), tức là cái nơi, cái vùng đất (quốc gia) mà ta, cha mẹ ta, ông bà ta, đời cụ kỵ ta, tiên tổ ta từng sinh ra, lớn lên và là chủ nhân đích thực của nó. Dựa vào chính sự thiêng liêng đó trong sâu thẳm tâm hồn của một người, những quốc gia tiến bộ thường có điều kiện bắt buộc vị tổng thống của họ phải được sinh ra tại đất nước (quốc gia) mà người đó lên làm tổng thống. Khái niệm “Tổ Quốc” là không thể bị xóa bỏ trong tiềm thức đối với mỗi con người cụ thể.

Khái niệm “Quốc Gia” là gì? Quốc gia chính là vùng đất được giới hạn bởi một đường biên giới cụ thể, trong đó có mô hình nhà nước tùy theo chế độ chính trị, các cư dân sinh sống tùy theo nhu cầu làm việc và sở thích, thói quen cư ngụ của các sắc dân. Quốc gia thường có biến động về biên giới khi có chiến tranh. Quốc = nước, gia = nhà (nước nhà), xuất phát từ nghĩa này người ta mới liên tưởng đến cụm từ “nhà nước”.

Khác với tổ quốc, quốc gia thường chỉ song hành với mỗi thể chế cầm quyền và chế độ chính trị. Câu “nhà nước Việt Nam” chẳng hạn, chỉ có giá trị ứng với từng giai đoạn lịch sử. Nhà nước Việt nam thời nhà Lý khác với nhà Trần, nhà Lê (mặc dù cùng tính chất là Phong kiến) và tất nhiên là khác với nhà nước Việt Nam thời nay. Đặc biệt, Việt Nam đã nhiều lần từng có hai nhà nước, gần đây nhất đó là nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nhà nước Việt Nam Cộng Hòa. Lẽ dĩ nhiên quốc gia của người Miền Bắc (VNDCCH) khác với quốc gia của người Miền Nam, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (VNCH). Như vậy quốc gia thường gắn liền với nhà nước.

Chế độ chính trị xã hội, nói theo cách rút gọn (và rất thiếu) của hai tác giả kể trên của báo Quân đội nhân dân là “chế độ xã hội” thì chúng ta phải hiểu rằng, đó là thể chế cầm quyền. Thể chế cầm quyền theo mô thức (đường lối, tư tưởng) nào thì chế độ chính trị xã hội được xây dựng và vận hành theo cách ấy. Ví dụ nổi bật là Chủ nghia Tư bản (thực ra là trên thế giói này không có chủ nghĩa tư bản) là đa nguyên đa đảng, lấy sự tự do của con người làm đỉnh cao của sự quan tâm. Đối với Chủ nghĩa Xã hội thì đứt khoát dù là có một đảng chính trị hay nhiều đảng nhưng dứt khoát là Đảng Cộng Sản phải cầm quyền tuyệt đối và lâu dài, bất luận điều này có được ghi trong hiến pháp (như Việt Nam) hay không.

Lý luận của An Huy và Bắc Hà hoàn toàn là thừa, là sáo, trong đoạn: “Thực tiễn cho thấy, trong lịch sử nhân loại không hề có Tổ quốc phi lịch sử” Tổ quốc tất nhiên phải có lịch sử vì xã hội không ngừng biến đổi, nhưng “…không gắn với một chế độ xã hội nào, không gắn với một lực lượng cầm quyền nào” là hoàn toàn sai, vì “Tổ Quốc” chỉ là một hình tượng, mặc dù nó rất thiêng liêng. Cái “gắn với chế độ xã hội” mà các tác giả nói đến, chính là quốc gia, không phải là tổ quốc. Như vậy đã có sự đánh tráo giữa khái niệm “Tổ Quốc” và khái niệm “Quốc gia” ở đây.
 
Cái mục tiêu “chèo lái” của Anh Huy và Bắc Hà đã lộ rõ khi nói: “Tương tự như vậy, nói đến Tổ quốc mà không nói đến chế độ xã hội, không nói đến lực lượng cầm quyền chẳng khác nào nói về sở hữu mà không nói đến chủ thể sở hữu là ai. Trước hết nói như hai tác giả trên thì có lẽ mỗi khi nhắc đến tổ quốc, để cho đầy đủ và công bằng (và không ‘phi lịch sử’ theo cách nói của hai tác giả), thì người ta phải nhắc đến toàn bộ lịch sử của một đất nước. Đối với Việt Nam thì cần phải điểm lại từ thời nhà Đinh, nhà Lý vv… còn đối với Ai Cập hay Hy lạp thì có lẽ là phải điểm lại lịch sử từ hàng chục ngàn năm (trước Công Nguyên) đến nay?
 
Vậy mục tiêu của An Huy và Bắc Hà là gì? Đó chính là đồng hóa hai khái niệm vốn riêng biệt, đó là “Tổ Quốc” và “Quốc gia”. Thay vì nói: “Không thể nói đến quốc gia mà không nói đến lực lượng cầm quyền” thì họ đã nói: “Tương tự như vậy, nói đến Tổ quốc mà không nói đến chế độ xã hội, không nói đến lực lượng cầm quyền chẳng khác nào nói về sở hữu mà không nói đến chủ thể sở hữu là ai.Chưa kể đến việc họ liên tưởng “lực lượng cầm quyền” với “chủ thể sở hữu”, có lẽ họ muốn nói “lực lượng cầm quyền là chủ thể sở hữu xã hội”? Vậy thì rất đúng với chế độ chính trị Việt Nam hiện nay: ĐCSVN tự tung tự tác, đứng trên pháp luật (không có luật đảng) thích gì làm nấy, giống như họ là người có quyền sở hữu đất nước và nhân dân vậy!
 
Không biết trình độ học vấn, chuyên môn và tuổi tác của hai tác giả An Huy và Bắc Hà ở mức nào. Nhưng những gì họ thể hiện qua bài viết rất sai và rất sai lạc như trên, cho thấy họ đang có nguy cơ rơi vào trạng thái thần kinh mất cân bằng, ở trên thì họ nói: “Vậy liệu có thể nói là “Tổ quốc không thể mang một ý thức hệ tư tưởng nào cả” không?  Nhưng sau đó lại nói “ý thức hệ của nhà nước” cụ thể: “Dĩ nhiên, ý thức hệ của nhà nước nói chung là ý thức hệ của lực lượng cầm quyền. Chỉ có điều người ta có công khai nó hay không mà thôi.” Tổ quốc mà có “ý thức hệ” thì có lẽ cái tổ quốc đó chỉ của riêng An Huy và Bắc hà mà thôi! Lý luận kiểu đó, nói theo cách dân dã là đến “bố giời cũng chịu!”

Nói tóm lại, mặc dù khá chau chuốt và rất khéo léo che đậy dụng ý, bài viết “Tổ quốc không thể không gắn với chế độ xã hội” của An Huy Và Bắc Hà là một bài viết rất không minh bạch. Họ chắc chắn là đảng viên ĐCSVN thì đương nhiên phải ca ngợi đảng của họ, không có gì đáng trách. Họ cứ việc giữ Điều 4, cứ việc coi lực lượng cầm quyền (ĐCSVN) là chủ sở hữu xã hội, vì quyền bính trong tay họ. Nhưng họ cố tình đánh tráo khái niệm, bẻ cong chân lý, thậm chí sa đà vào trạng thái mất cân bằng trong lý luận.., thì những điều đó chính là việc họ tự làm hại mình bằng “con dao lý luận” có hai lưỡi chứ không có gì khác!

Nguồn diendanctm
_________________________________

Tổ quốc không thể không gắn với chế độ xã hội

QĐND - Triển khai nghị quyết của Quốc hội và chỉ thị của Bộ Chính trị về việc lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sau đây gọi tắt là Dự thảo Hiến pháp), đông đảo các tầng lớp nhân dân trên cả nước và người Việt Nam ở nước ngoài đã tâm huyết, trách nhiệm đóng góp hàng chục triệu ý kiến xây dựng Hiến pháp. Tuyệt đại bộ phận nhân dân xem đây là quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc tham gia ý kiến để xây dựng một bản Hiến pháp bảo đảm khách quan, khoa học, phù hợp với văn hóa, truyền thống lịch sử của dân tộc; thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, nhằm xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và phát triển.


Các ý kiến của nhân dân không chỉ bày tỏ sự đồng tình với nội dung được đề cập trong Dự thảo Hiến pháp, mà còn đóng góp thẳng thắn, đề nghị chỉnh sửa từng điều, từng khoản, thậm chí từng chữ trong dự thảo với sự nghiên cứu công phu, nghiêm túc, thể hiện rõ trách nhiệm chính trị đối với một đạo luật gốc có liên quan đến đường hướng phát triển và tương lai của đất nước, của dân tộc.


Tuy nhiên, trên một số trang mạng, hay blog cá nhân hoặc thông qua một số hãng thông tấn, báo chí nước ngoài có người viết bài gọi là để “góp ý” vào Dự thảo Hiến pháp, song thực chất là truyền bá những ý kiến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN), kêu gọi thực hiện đa đảng chính trị đối lập ở Việt Nam. Một số người đòi xóa bỏ Điều 4 trong Dự thảo Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN; đòi “phi chính trị hóa quân đội”.


Để đưa ra những căn cứ đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, có người lập luận rằng: “Tổ quốc phải cao hơn Nhà nước và chế độ”; rằng: “Tổ quốc Việt Nam là cội nguồn chung của mọi người Việt Nam từ hàng ngàn năm nay. Vì thế, dĩ nhiên Tổ quốc không thể mang một ý thức hệ tư tưởng nào cả”…


Vậy quan điểm “Tổ quốc cao hơn Nhà nước và chế độ”, Tổ quốc “không mang ý thức hệ” có đúng không? Và mục đích của việc nêu ra những quan điểm này là gì?


Thực tiễn cho thấy, trong lịch sử nhân loại không hề có Tổ quốc phi lịch sử, không gắn với một chế độ xã hội nào, không gắn với một lực lượng cầm quyền nào. Tổ quốc mà không gắn với xã hội, không gắn với dân cư thì đó chỉ là hoang đảo. Dân tộc mà không gắn với xã hội với truyền thống thì chẳng khác nào nói đến một cộng đồng dân cư còn ở thời kỳ hoang dã hoặc bị rơi vào chứng mất trí nhớ như trong phim ảnh mà người ta dựng lên nhằm mục đích giải trí. Tương tự như vậy, nói đến Tổ quốc mà không nói đến chế độ xã hội, không nói đến lực lượng cầm quyền chẳng khác nào nói về sở hữu mà không nói đến chủ thể sở hữu là ai.


Đối với dân tộc ta, một dân tộc với hàng ngàn năm lịch sử, Tổ quốc bao giờ cũng gắn với một chế độ xã hội, một lực lượng cầm quyền nhất định nào đó. Chẳng hạn: Thời Lý, Tổ quốc ta là nơi “Vua Nam ở” (Nam quốc sơn hà, Nam đế cư-Thơ Thần - Lý Thường Kiệt); Thời Trần, Tổ quốc trước hết là “thái ấp”; Nhà Trần là “xã tắc tổ tông” (Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo)... Tổ quốc Việt Nam ngày nay là đất nước do ông cha để lại, đã là một quốc gia độc lập, thống nhất do nhân dân ta làm chủ. Không ai có thể phủ nhận được rằng: Tổ quốc Việt Nam ngày nay là thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thắng lợi của các cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại do Đảng CSVN và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Cũng không phải ai khác, chính Đảng CSVN đã đánh thức truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc-tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của người Việt Nam cùng với việc tiếp thu và phát triển tư tưởng lớn lao nhất của thời đại-tư tưởng độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân đã tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước ta trong suốt chiều dài lịch sử từ khi Đảng CSVN giữ vai trò lãnh đạo.


Vậy liệu có thể nói là “Tổ quốc không thể mang một ý thức hệ tư tưởng nào cả” không?. Hệ tư tưởng là gì? Đó là toàn bộ những quan điểm chính trị, luật pháp, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học (thượng tầng kiến trúc), biểu hiện quyền lợi của một giai tầng nào đó. Bởi vậy khi xuất hiện nhà nước và giai cấp thì đương nhiên cũng xuất hiện hệ tư tưởng. Đó là một quy luật. Rõ ràng thế giới ngày nay không một quốc gia nào không mang một ý thức hệ nào đó. Dĩ nhiên, ý thức hệ của nhà nước nói chung là ý thức hệ của lực lượng cầm quyền. Chỉ có điều người ta có công khai nó hay không mà thôi. Chẳng hạn, ở các nhà nước tư bản chủ nghĩa thì đương nhiên ý thức hệ của nhà nước đó là ý thức hệ tư sản, là chủ nghĩa tư bản, trong đó về kinh tế là kinh tế thị trường tự do và chế độ tư hữu về đất đai… Về chính trị, đó là chủ nghĩa “đa nguyên”… Ở các nước lấy tôn giáo làm quốc đạo thì hệ tư tưởng ở các quốc gia đó phải là giáo lý. Thật ra, khi nói Tổ quốc không mang ý thức hệ thì “thông điệp” chủ yếu ở đây là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta, phủ nhận chủ nghĩa Mác -Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà thôi.


Tự do tư tưởng là quyền của mỗi người và sự thay đổi quan điểm của cá nhân cũng không phải là một việc khó khăn. Thông thường, người ta sẽ chọn một hệ tư tưởng nào đó có khả năng bảo vệ tốt nhất lợi ích của họ. Nhưng đối với một dân tộc thì lựa chọn một hệ tư tưởng phải trải qua một quá trình lịch sử, có khi phải trả giá bằng xương máu của nhiều thế hệ. Dân tộc ta lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lê-nin dựa vào những kinh nghiệm thất bại và thành công của chính mình. Sự lựa chọn đó, bắt nguồn từ người con ưu tú nhất của dân tộc, đó là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Sở dĩ dân tộc ta giành được độc lập, chiến thắng các đế quốc hùng mạnh nhất, thống nhất đất nước và ngày nay thực hiện đổi mới theo con đường XHCN chính là đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta đã hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.  Tư tưởng Hồ Chí Minh là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự vận động, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” (*)... Ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lê-nin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng và của dân tộc ta. Bởi vậy, viện cớ “Tổ quốc không mang ý thức hệ” để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN nói chung, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng là không thuyết phục. Đó chính là sự phủ nhận lịch sử đấu tranh cách mạng của cả dân tộc, phủ nhận ý chí, nguyện vọng, niềm tin của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vào tương lai của dân tộc.


BẮC HÀ - AN HUY

Nguồn QĐND

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More